Đổi mới hệ thống y tế ở Việt Nam

Bài viết của Ts Lê Phong, một trong những chuyên gia hàng đầu về nội tiết ở nước ta hiện đang làm việc tại Bệnh viện An Việt. Bài viết gồm 3 phần chính:

  1. Ngành y tế cần phải làm gì trước yêu cầu mới của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
  2. Tháo gỡ một số nút thắt chủ yếu trong quản lý ngành y tế ở nước ta
  3. Một vài cải cách cấp bách cần thực hiện ngay trong ngành y tế

Khi Tổng bí thư  Tô Lâm đưa ra lời hiệu triệu mong muốn đất nước ta bước sang chặng đường mới: “ Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc ” với những công việc làm cụ thể như: Đưa ngành Công An về gần dân bằng cách xóa bỏ Công An cấp huyện, sáp nhập các tỉnh, bỏ cấp huyện trung gian để tạo động lực phát triển tránh tình trạng xa dân. Đặc biệt NQ 57 của BCT về phát triển khoa học công nghệ trong giai đoạn mới, thúc đẩy nghiên cứu, phát triển KHKT là sự sống còn của dân tộc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước là những việc làm hữu ích nhằm đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo. Đảng, Chính Phủ cũng tuyên bố kinh tế tư nhân là nòng cốt trong sự phát triển của nước ta.

Xây dựng thể chế, tổ chức gần dân và do dân chưa bao giờ được quan tâm đến như lúc này. Nhìn bức tranh tổng thể chúng ta thấy việc bố trí nhân lực và cơ cấu tổ chức đóng vai trò then chốt nên bước đầu tiên mà Bộ Chính trị và Ban Ban Chấp hành Trung ương Đảng  đặt ra là sáp nhập tỉnh, sáp nhập các Bộ, ngành. Tuy nhiên, với ngành Y tế chúng ta vẫn chưa thấy  có những định hướng quan trọng trọng việc xây dựng thể chế, tổ chức gần dân và do dân như mong muốn cải cách quan trọng do Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra,

Bài viết sau để xuất một số kiến nghị về giải pháp cấp bách nhất để khắc phục những yếu kếm của ngành y tế trong việc phục vụ nhân dân.

I.THỰC TRẠNG CỦA Y TẾ NƯỚC TA

1.1.Bộ máy tổ chức Bệnh viện  công

Cho đến nay ngành Y tế vẫn quản lý sắp xếp theo mô hình: Y tế xã -Y tế huyện-Y tế tỉnh- Y tế trung ương. Hệ thống Bệnh viên (BV) của nước ta không giống mô hình của nhà nước nào trên Thế giới, chúng ta đi một con đường riêng biệt: BV Huyện-BV Tỉnh-BV Trung ương. Tuyến trung ương thì phân lẻ ra các BV chuyên khoa như: BV Tai-Mũi-Họng, BV Nội tiết, BV Da liễu, BV Phổi, BV Lão khoa, BV Sản-Nhi, vv Trên thế giới thì trong một BV bảo đảm có đủ các khoa như khoa Nội tiết, Tai- Mũi –Họng  , Răng Hàm- Mặt , Tim, Da liễu…Với cách cơ cấu như vậy thì trong một BV có đầy đủ các khoa nên việc hội chẩn việc điều trị cho người bệnh (NB) rất thuận lợi. Ví dụ NB  bệnh  mắc Đái tháo đường  thì liên quan đến cảc xét nghiệm , thăm dò chức năng, khi có biến chứng về Tim-Mạch, Não thì cần sự phối hợp của cấp cứu, can thiệp Tim-Mạch, khoa Thần Kinh- Tâm thần…rất tiện lợi. Không phải chuyển NB đi từ BV chuyên khoa Nội tiết đến các BV lớn có đầy đủ trang thiết bị và nhân lực để sử lý. Như vậy cùng một NB chúng ta có sự hỗ trợ của các chuyên khoa kịp thời cho NB và đỡ tốn kém cho NB.

Hệ thống huyện: huyện nào cũng có BV, cũng siêu âm, cũng cấp cứu…nhưng tuyệt -đại đa số BV của tuyến huyện vừa thiếu nguồn lực vừa thiếu về trang  thiết bị Y tế. Điều trị ban đầu cũng ậm ạch. Mỗi huyện là 1 BV thật lãng phí cả nuồn nhân lực và thiết bị.

Trạm Y tế xã của các nước chỉ là Trung tâm Y tế thực hiện dự phòng như mô hình Thái Lan. Họ không khám chữa bệnh. Ở nước ta Trạm Y tế  xã bây giờ chỉ cấp phát một số thuốc theo hình thức khám chay không hề đáp ứng được xét nghiệm.

Mô hình tổ chức hiện nay rất bất cập. NB khi bị bệnh là bỏ YT cấp xã, đi qua YT cấp huyện hoặc họ lên tuyến tỉnh hoặc chạy thẳng đến tuyến TW. Dân họ không tin nên BV tuyến TW luôn quá tải cho dù BV tuyến cơ sở hoàn toàn có thể điều trị được.

Số lượng NB đến khám phải nhập viện điều trị nội trú rất ít, chủ yếu là điều trị ngoại trú. Sự phân cấp như hiện nay chỉ khổ cho người bệnh. Tôi lấy ví dụ: BV Nội tiết TW (Cơ sở 1) nằm giữa BV Đống Đa và BV Giao thông Vận tải. Cùng một NB khi khám Bảo hiểm y tế  ở BV Đống Đa và BV Giao thông vận tải  thì 03 tháng được xét nghiệm  sinh hóa 1 lần. Đơn thuốc không vượt quá 500.000 đồng. Nếu NB khám ở BV Nội tiết Trung ương thì xét nghiệm  được chi trả tất cả, tháng nào cũng được xét nghiệm  đầy đủ từ A-Z. Đơn thuốc thì gấp 3 lần so với 2 BV trên. (Để chuyển Bảo hiểm y tế  từ tuyến cơ sở lên BV Nội tiết khám không phải ai cũng có cơ hội).

Với sự sắp xếp mô hình tổ chức hình chóp như trên thì NB đổ sô lên các BV Trung ương  như ở Hà Nội , Tp.HCM khám là đương nhiên. Quá tải là đương nhiên. Tất nhiên ốm đau thì phải vay mượn lăn lội lên BV Trung ương khám và chữa trị.

1.2. Mô hình BV tư, Phòng khám tư.

Chưa bao giờ BV tư nở rộ như hiện nay. Bắc Giang có huyện tồn tại 02 BV tư nhân. Huyện nào cũng có 1 BV tư. Các thành phố lớn thì BV tư nhân nở rộ không sao kể xiết. Mỗi BV tư là một thế mạnh khác nhau. Cũng chính vì BV tư mọc lên như nấm nên các BV ra sức quảng cáo, chiêu dụ NB với đa hình thức tiếp thị. Giá cả mỗi BV một khác nhau. NB để nhanh gọn, đằng nào cũng mất tiền nên đành chạy vào các BV tư. Giá giường nằm, chi phí phẫu thuật…cũng gần như BV công. BV tư lãi lớn. Nhân lực Y, Bác sỹ  thì toàn những chuyên gia, có tay nghề tương đối vững. Thiết bị Y tế ở một số BV tư đáp ứng được như cầu của NB. Một số BV tư có thiết bị hơn hẳn BV công.

Do không có quy hoạch nên BV tư và Phòng khám  tư nối tiếp nhau ra đời. Chất lượng điều trị như thế nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá của NB. Chưa có khảo sát đánh giá độc lập nào về chất lượng giữa BV công và BV tư. Theo tôi BV tư làm ăn có lãi, chi trả mức lương cao cho Y, Bác sỹ nên không thể nào nói là chất lượng điều trị không tốt. Sự chi trả Bảo hiểm y tế  cho BV tư thì rất nhiều việc chúng ta phải bàn. Không khác gì BV Đống Đa- Nội tiết và Giao thông vận tải.

1.3.Đào tạo nguồn lực

Nghề Y là một nghề đặc biệt.

Ở các nước cơ sở đào tạo Bác sỹ  lâm sàng bắt buộc phải có điệu kiện tối thiểu: BV để thực hành, Phòng Xét nghiệm phải đủ tiêu chuẩn như sinh hóa, vi sinh, giải phẫu…Sinh viên được tuyển chọn khá khó khăn, phải qua các kỳ thi tuyển ban đầu và từng bước trải qua 9 năm hoặc 11 năm tùy theo chuyên khoa khác nhau. Lương của các Bác sỹ, điều dưỡng cao ngất.

Ở Việt nam  hiện nay các trường tư nhân nhận đào tạo Y sỹ,  Bác sỹ , Dược sỹ không theo tiêu chí nào. Cứ có tiền là vào học và được cấp bằng sau 6 năm học. Ra là hành nghề. Cơ sở vật chất của Trường Y dân lập thì hầu như chỉ để đối phó, Labo trang bị hình thức. Thế mà vẫn được đào tạo. Giảng viên thuê, thuê giảng viên đã hưu hoặc Bác sỹ  đã hưu giảng cho đủ tiết. BV thực hành cũng vậy. Cũng có BV nho nhỏ xinh xinh có vài chuyên khoa để sinh viên đến ngắm là chính.

1.4. Dược, sinh phẩm và trang thiết bị Y tế (TTBYT).

Chúng ta chưa sản xuất một viên thuốc nào được Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ (FDA) công nhận. Chủ yếu là thuốc gia công. Kháng sinh, hoạt chất nhập về gia công.

TTBYT hoàn toàn chưa sản xuất được. Kim tiêm chuyên dụng cũng nhập. Pipet định lượng cũng nhập. Tất cả đều nhập. Nhập thuốc, nhập trang thiết bị.

Sinh phẩm Y tế như vaccine nội có sản xuất ra nhờ có các nước như Nhật Bản, Mỹ giúp đỡ. Tuy nhiên một số Vaccine nội dân không sử dụng.

1.5. Nghiên cứu khoa học

Việc hô hào Đông -Tây Y kết hợp bao nhiêu năm qua chúng ta cũng chưa có bài thuốc nào được thử nghiệm lâm sàng, chưa được công nhận trong giới học thuật. Tất cả chỉ dừng ở những bài thuốc kinh nghiệm, không có giá trị điều trị.

Các Viện nghiên cứu rất nhiều nhưng chưa có một đề tài nào đem lại hữu hiệu cho đất nước. Viện Y tế công cộng, Viện chính sách Y tế chưa có một nghiên cứu nào thật sự có đóng góp lớn cho ngành Y. Chính sách Y tế vẫn theo lối mòn. Tác động xã hội đến Y tế cũng chỉ là những nghiên cứu chung chung theo mô hình mà các nước đã nghiên cứu. Học theo và làm theo họ. Chưa có nghiên cứu nào  nào tthể hiện được là nghiên cứu riêng của Việt Nam.

II.GIẢI PHÁP NÀO CHO NGHÀNH Y

2.1. Giải thể phân cấp BV

Vào những năm chưa đổi mới đất nước ta đồng ruộng phì nhiêu, 4 mùa hoa trái nhưng dân ta thiếu gạo ăn, ăn gạo môc và nhập Bobo của Liên Xô về ăn. Đói từ cân chè, đói từng hạt lạc ,hạt đỗ. Tại sao? Đó là do chính sách kế hoạch hóa! Mô hình Hợp tác xã  của chúng làm nên sự thiếu thốn đói nghèo. Chỉ ngay năm đầu xóa bỏ bao cấp cả nước ta thừa gạo, thừa hoa quả, thừa đỗ lạc…tiến tới xuất khẩu gạo.

Ngay khi Tổng bí thư Tô Lâm sắp xếp lại ngành Công An, một trong những ngành gần dân phục vụ mà dân cứ tưởng rằng Nhà Nước ta sẽ sắp sếp ngay lại là ngành Y tế. Đây là điểm nghẽn nặng nề nhất trong tất cả điểm nghẽn dịch vụ phục vụ xã hội mà trực tiếp là con người, người bệnh, người đang ốm thì không thể không được chữa bệnh kịp thời. Nhưng Nhà Nước, Chính Phủ xem ra bỏ qua điểm nghẽn này vì có thể các lãnh đạo ngại va chạm về quyền lợi của các cụ: chế độ khám bệnh cao cấp và trung cấp và hơn cả là không có Y sỹ, Bác sỹ  nào dám lên tiếng. Thật đáng buồn, một vài GS.TS.Bác sỹ  được dân bầu vào nghị trường chỉ phát biểu những ý kiến tủn mủn hoặc khen cho được chuyên khoa, BV của chính các vị ấy đang lãnh đạo. NB vẫn thống khổ.

Việc đầu tiên nên làm là xóa bỏ nganh hình thức BV các cấp. Đưa tất cả các BV về theo địa dư hành chính trực thuộc cấp tỉnh, TP quản lý. Xóa bỏ hệ thống BV Trung ương. Ví dụ  BV Bạch Mai, Việt Đức, Chợ Rẫy.. hiện thuộc Bộ Y Tế quản lý thì trao trả cho Uỷ ban nhân dân  thành phố sở tại quản lý. Tránh tình trạng phân biệt BV tuyến trên và tuyến dưới.

Mô hình BV ở các tỉnh dựa vào dân số mà mỗi tỉnh có bao nhiêu BV. Không có BV tuyến tỉnh. Ví dụ  như Đồng Nai cần có 3 BV, 3 BV này tương ứng có đủ các chuyên khoa phục vụ ở 3 vị trí khác nhau thuận lợi cho NB khám và điều trị. Hay những tỉnh như Cao Bằng, Lạng Sơn…cũng chỉ cần có 3 BV là đủ phục vụ cho NB. Không nhất thiết phải huyện nào cũng có 1 BV như hiên nay. Mỗi BV của một vùng trong tỉnh có đầy đủ Trang thiết bị y tế và các chuyên khoa.

Y tế xã chỉ là các Trung tâm Y tế tham gia công tác dự phòng

Nâng cao trách nhiệm và chi trả Bảo hiểm y tế  đúng mức cho các phòng khám tư nhân. Phòng khám  tư nhân được coi như là Bác sỹ  gia đình. Phòng khám tư nhân khám và sử lý những bệnh thông thường. Không để các Phòng khám  chuyên khoa, ngoài giờ của các Bác sỹ  cơ hữu hiện tại phát triển ổ ạt. Phải quy định rõ khoảng cách địa lý bao nhiêu xa có 1 BV dù công hay tư. Khuyến khích Bác sỹ  gia đình khám chữa bệnh theo Bảo hiểm y tế và thu mức khám phù hợp với NB.

Mạnh dạn xóa bỏ một số BV tư nhân không đủ diện tích hoặc cơ sở nhà cửa tạm xây cơi nới hoặc thuê những căn nhà được cải tạo gọi là BV. BV dù công hay tư phải đạt tiêu chí diện tích đất nhất định. Đủ khang trang. Không chắp vá như một số BV tư hiện nay ở các thành phố và  thị trấn.

Vậy sẽ có nhiều giả thuyết rằng nếu vậy thì các tỉnh lấy đâu ra Bác sỹ ? Hay những ca cấp cứu khó thì sao? BV nào cấp cứu? Xin thưa rất đơn giản:

-Tỷ lệ NB phải cấp cứu thật nặng như vỡ gan, vỡ não rất ít. Kỹ thuật cấp cứu này cũng không khó nếu như thời gian vận chuyển NB từ cơ sở lên đến HN, Tp.HCM như hiện nay được thay thế bằng báo động đỏ. Các Bác sỹ  chuyên khoa ở tỉnh lân cận hoặc vùng lân cận có kinh nghiệm sẽ nhận được thông báo và lên xe cứu thương chạy đến BV nơi có NB nặng để cấp cứu kịp thời. Như vậy NB còn thuận lợi hơn không chết giữa đường hoặc lên đến BV lớn rồi bị trả về. Khoa học như hiện nay chúng ta thừa điều kiện để làm việc đó. BS tham gia cấp cứu được chi trả tiền như ngồi ở BV lớn! Đạo đức người BS không cho phép họ từ chối. Mỗi ca bệnh như vậy uy tín của cá nhân BS càng lên cao. Nên nhớ rằng các BV tỉnh như Thái Bình còn được chia sẻ kinh nghiệm kỹ thuật ghép tạng.

-Kỹ thuật chuyên khoa hiên nay các Bác sỹ  được đào tạo vẫn đã và đang làm tốt. Ví dụ  như đặt Stent cho NB tắc mạch vành tuyến tỉnh đều làm được nhưng vì BS không được khuyến khích và đôi khi NB thích tuyến TW nên chạy lên BV tuyến trên. Lên đến tuyến trên thì cũng các BS trẻ chỉ thực hiện thủ thuật mà thôi.

-Cơ chế xóa bỏ phân tuyến thì các BS có tay nghề cũng tự tìm vị trí làm việc.Khi xóa bỏ phân cấp thì lượng NB ít đi  dẫn đến các  Bác sỹ  hiện ở tuyến Trung ương  tự dịch chuyển về các tỉnh. Lúc này ở đâu có NB là có các BS đáp ứng.

-Xóa bỏ cơ chế nửa vời hiện nay “BV tự chủ” mà phải coi BV là đơn vị kinh doanh có điều kiện. Có mức thu chi và chi trả do BV tự hoạch toán. Tránh tình trạng hiện nay giao cho BV tự chủ nhưng xây dựng BV, xét tuyển nhân lực…lại phải do BYT quy định và cho phép tuyển mới được tuyển, xây mới được xây.

-Bộ Y Tế và Sở Y Tế  các tỉnh chỉ quản lý về mặt nhà nước.và ban hành quy chế. Khuyến khích các bệnh viện tự cân nhắc đưa các kỹ thuật cao vào ứng dụng và tự chịu trách nhiệm với kỹ thuật đó. BV tự đẩy mạnh Nghiên cứu khoa học. Bộ Y Tế không nên tham gia chỉ đạo quá sâu như hiện nay.

-Bộ Y Tế thành lập các Hội đồng Khoa học chuyên trách, thông báo cho các BV và Công ty Dược. Khi BV công, BV tư và các Công ty Dược cần nghiên cứu áp dụng đề tài và thẩm định các đề tài của  BV và Công ty  thì các đơn vị này mời các Hội đồng Khoa học đến thẩm định. BYT chỉ cử chuyên viên tham gia đoàn và Bộ Y Tế căn cứ vào kết luận của Hộ đồng khoa học mà ra quyết định. Tránh tình trạng hiên nay tất cả do Bộ Y Tế quản lý. Việc , mời các nhà Khoa học tham gia và Lãnh đạo Bộ Y tế cùng các chuyên viên tham gia  Hội đồng khoa học rất mất thời gian làm chậm tiến độ của các đơn vị. Ví dụ  như BV A cần triển khai đề tài Nghiên cứu khoa học  về tế bào gốc hoặc triển khai kỹ thuật mới trong can thiệp thì phải gửi toàn bộ hồ sơ lên Bộ Y Tế. Bộ Y Tế không thể quyết được mà phải triệu tập các nhà khoa học chuyên ngành rồi thành lập đoàn. Các đơn vị đợi chờ thời gian rất lâu. Khi đã giao cho Hội đồng khoa học rồi  thì trách nhiệm của người đứng đầu sẽ quyết định. Bài học Hội đồng khoa học nghiệm thu test covid là một minh chứng thất bại. Nếu Hội đồng khoa học được minh bạch, công khai không có sai trái như Hội đồng khoa học  nghiệm thu test covid gây nên hậu quả nghiêm trọng. Các nhà khoa học khi được giao tham gia Hội đồng khoa học sẽ tự phát huy vai trò và trách nhiệm của họ trong đúng sai và thưởng phạt.

2.2. Đào tạo nguồn nhân lực

Vào những năm 1990, khi mới bắt đầu đổi mới các tổ chức Phi Chính phủ như SIDA (Thụy Điển), Tổ chức y tế thế giới (WHO)  và các tổ chức khác hỗ trợ rất nhiều cho chính sách Y tế. Bộ Y tế  thành lập 1 đơn vị Chính sách Y tế. Rất nhiều đoàn đi các nước học tập và trao đổi mô hình Y tế nhưng hầu như mô hình Y tế và đào tạo nguồn lực cho Y tế thay đổi không đáng kể. Các đơn vi Y tế nhập tách theo quan điểm tư duy của từng Bộ trưởng, không có mô hình nào theo các nước. Cơ chế xin cho vẫn nặng nề. Chính vì thế Y tế hiện nay phạm phải nhiều sai lầm không đáng có.

            -Các cơ sở đào tạo Y Dược hiện nay phải thống nhất chương trình đào tạo Y sỹ- Bác sỹ- Dược sỹ theo thông lệ Quốc tế. Đảm bảo Y sỹ-Bác sỹ- Dược sỹ  có bằng cấp như các nước tiên tiến được các nước công nhận khi hành nghề. Việc này không khó nếu như chúng ta chấp nhận đổi mới mạnh. Trước hết nên chuẩn hóa trường Y Dược công lập hiện nay về đào tạo Bác sỹ  và Dược sỹ như Đại học  Y Hà Nội, Thái Bình, Thái Nguyên, Tây Nguyên, Huế, Tp.HCM, Cần thơ và 2 Trường ĐH Dược Hà Nội, Tp.HCM theo mô hình của các nước.

            -Cơ sở đào tạo điều dưỡng cũng mạnh dạn thay đổi. Thay vì số lượng như hiện nay cần tập trung đào tạo về chất lượng.

            -Mạnh dạn xóa bỏ các trường đào tạo Y, Dược ngoài công lập không đủ tiêu chuẩn như hiện nay. Khi chúng ta đào tạo Y Dược theo mô hình các nước tiên tiến ở các trường công lập thì tự nhiên các trường dân lập này sẽ tự triệt tiêu khi không đủ tiêu chí.

Với hình thức đào tạo tiên tiến như các nước thì chất lượng điều trị sẽ được nâng cao không phải hô hào theo khẩu hiệu: Thầy thuốc như mẹ hiền hay nhắc nhở Y đức. Xã hội sẽ chấp nhận trả dịch vụ Y tế xứng đáng và thu nhập Y sỹ, Bác sỹ  sẽ được đảm bảo.

3.3. Giải pháp công bằng khám chữa bệnh công-tư và chi trả Bảo hiểm y tế  rành mạch

Những năm qua Y tế ngoài công lập (BV, Phòng khám, Đơn vị tiêm chủng, Công ty Dược) đóng góp đáng kể việc điều trị và dự phòng cho nhân dân. Các đơn vị tư nhân làm ăn luôn có lãi, chi trả mức lương cho các Y sỹ, Bác sỹ  khá cao so với các đơn vị Y Dược công lập. Hàng loạt các BV, Công ty Dược tư nhân ra đời. Trái ngược với các đơn vị Y Dược công lập phần lớn không đủ thu bù chi, lương thấp. NB xem ra có vẻ hài lòng khi thụ hưởng Y Dược tư hơn là so với Y Dược công lập. Đặc biệt các đơn vị Y Dược công lập  ở tuyến cơ sở gần như hoạt động không hiệu quả. Tuy nhiên, chúng ta cần xem lại chế độ hưởng thụ Bảo hiểm y tế công và tư có đem lại quyền lợi có ý nghĩa cho NB không? Tại sao các nước như Thái Lan…Y tế của họ tương đối công bằng. Mô hình cho Việt Nam  học tập có lẽ nên học Thái Lan là nước  có điều kiện tương tự như Việt Nam?

Khuyến khích BV tư, Doanh nghiệp tham gia Nghiên cứu khoa học và áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào điều trị, sản xuất thuốc, dụng cụ Y tế. Để giải quyết có hiệu quả Bộ Y Tế không nên cái gì cũng phải  thẩm định mà nên giao việc đó cho Hội đồng khoa học thực hiện và chịu trách nhiệm. Bộ Y Tế có hiểu biết gì về kỹ thuật mới và Nghiên cứu khoa học mới đâu mà thẩm định nên  Bộ Y Tế toàn phải mời các nhà khoa học  rồi thành lập đoàn thẩm định rất nhiêu khê. Nên chăng giao toàn bộ cho từng Hội đồng khoa học  và Hộ đồng khoa học chịu trách nhiệm trước Bộ Y Tế. Như vậy vừa nhanh, vừa hiệu quả và chất lượng hơn nhiều.

Còn rất nhiều khía cạnh khác cần được bản luận. Nhưng nút thắt hiện nay chỉ bao gồm 03 mảng chính:

1.Xóa bỏ tình trạng phân tuyến BV công như hiện nay. Khi chúng ta xóa bỏ tình trạng này giao cho các tỉnh, thành quản lý không còn những BC công do Bộ Y Tế quản lý thì tự khắc các BV sẽ điều chỉnh hoạt động. Nhân lực sẽ tự biết làm ở đâu không còn cảnh Bác sỹ  giỏi tập trung ở Trung ương mà  thiếu ở địa phương. Như vậy NB khám chữa bệnh rất thuận lợi. Bảo hiểm xã hội  cũng từ đó mà công bằng.

2. Thay đổi việc đào tạo nguồn lực Ysỹ -Bác sỹ – Dược sỹ  bằng việc chú trọng nâng cao chất lượng tại 9 cơ sở Y Dược hiện nay. Từ đó các trương đòa tạo Y dược tư nhân sẽ phải nâng cao chất lượng theo hoặc tự giải thể. Không để Bác sỹ , Dược sỹ  học ở trường tư cũng được cấp bằng như Bác sỹ, Dược sỹ  học các trường chính quy.

3.Bộ Y Tế  thay đổi cách quản lý. Thành lập các Hội đồng khoa học và khuyến khích cácHội đồng khoa học này  thẩm định, tư vấn cho cơ quan Bộ Y Tế ra văn bản mà thôi.

Bài học về đổi mới khi chúng ta ngăn sông cấm chợ gây thiếu lương thực thực phẩm là một bài học quý báu và cái giá phải trả quá đắt. Y tế nên lấy đó là bài học trong thời kỳ vươn mình của đất nước.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *